Tìm kiếm tin tức
Những nội dung cơ bản của Nghị định 76/2012/NĐ-Cp quy định chi tiết một số điều của Luật Tố cáo
Ngày cập nhật 04/12/2012

(ThanhtraVietnam) - Luật Tố cáo 2011 được Quốc hội thông qua ngày 11 tháng 11 năm 2011 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2012. Để Luật tố cáo đi vào cuộc sống, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 quy định chi tiết một số điều của Luật tố cáo (có hiệu lực từ ngày 20/11/2012). Nghị định gồm 5 chương, 26 điều với những nội dung cơ bản sau:

 

1. Trường hợp nhiều người cùng tố cáo

Trên thực tế trường hợp nhiều người cùng tố cáo về một nội dung diễn ra khá phức tạp nhưng giải quyết vấn đề này còn gặp không ít vướng mắc do thiếu cơ sở pháp lý. Luật tố cáo đã quy định nội dung này nhưng còn mang tính nguyên tắc. Để cụ thể hóa vấn đề này, Chương II Nghị định số 76/2012/NĐ-CP đã quy định về việc cử người đại diện trình bày tố cáo và trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc phối hợp xử lý trường hợp nhiều người cùng tố cáo.

Theo đó, khi có từ 05 người trở lên cùng tố cáo về một nội dung thì cử đại diện để thực hiện việc tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Trường hợp có từ 05 đến 10 người tố cáo thì cử 01 hoặc 02 người đại diện; Trường hợp có từ 10 người trở lên thì có thể cử thêm người đại diện nhưng tối đa không quá 05 người. Người đại diện phải là người tố cáo (Điều 4).

 Trường hợp nhiều người cùng tố cáo bằng đơn thì trong đơn tố cáo phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ của người đại diện. Trường hợp nhiều người cùng tố cáo trực tiếp thì phải cử đại diện để trình bày nội dung tố cáo. Việc cử đại diện để trình bày tố cáo phải được thực hiện bằng văn bản.

Đặc biệt, để nâng cao hiệu quả việc giải quyết tố cáo trong trường hợp nhiều người cùng tố cáo về một nội dung, Mục 2 chương II Nghị định 76 quy định phối hợp xử lý nhiều người cùng tố cáo về một nội dung ở cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc phối hợp xử lý trường hợp nhiều người cùng tố cáo đến các cơ quan Trung ương (Từ Điều 6 đến Điều 9). Trong đó, xác định rõ trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, Thủ trưởng cơ quan nơi có người tố cáo tập trung, Thủ trưởng cơ quan Công an, người phụ trách Trụ sở tiếp công dân và Thủ trưởng các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc phối hợp xử lý vụ việc nhiều người tố cáo. Các cơ quan chức năng này, tùy theo chức năng của mình, có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ như: tiếp đại diện của những người tố cáo; giải thích, hướng dẫn công dân thực hiện quyền tố cáo theo đúng quy định của pháp luật; cung cấp thông tin, tài liệu; thụ lý, giải quyết đối với tố cáo thuộc thẩm quyền hoặc hướng dẫn người tố cáo đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết; vận động, thuyết phục, có biện pháp để công dân trở về địa phương; đảm bảo trật tự công cộng; xử lý các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.

2. Công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo

Để đáp ứng yêu cầu của công tác phòng, chống tham nhũng, Điều 30 Luật tố cáo đã quy định về công khai nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo. Thực hiện việc quy định chi tiết nội dung này, Điều 11 Nghị định 76/2012/NĐ-CP quy định cụ thể các hình thức công khai, thời gian thực hiện việc công khai.

  Đối với tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức,          viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ, việc công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo theo một trong các hình thức quy định tại khoản 1 Điều 30 của Luật Tố cáo và được thực hiện như sau:

 Công bố tại cuộc họp cơ quan, tổ chức nơi người bị tố cáo công tác với thành phần gồm: Người giải quyết tố cáo, người xác minh nội dung tố cáo, người bị tố cáo, người đứng đầu cơ quan, tổ chức đơn vị nơi người bị tố cáo công tác, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Trước khi tiến hành cuộc họp công khai, người có thẩm quyền phải có văn bản thông báo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan biết. Thời gian thông báo phải trước 3 ngày làm việc.

 Niêm yết tại Trụ sở làm việc hoặc nơi tiếp công dân của cơ quan, tổ chức giải quyết tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày niêm yết;

Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng gồm: Báo nói, báo hình, báo viết và báo điện tử. Người giải quyết tố cáo có thể lựa chọn một trong các hình thức thông báo trên báo nói, báo hình, báo viết hoặc báo điện tử để thực hiện việc công khai. Trường hợp cơ quan có Cổng thông tin điện tử hoặc Trang thông tin điện tử thì người có thẩm quyền giải quyết phải công khai trên Cổng thông tin điện tử hoặc Trang thông tin điện tử. Để tạo điều kiện cho người dân được tiếp cận với các thông tin về việc giải quyết tố cáo, Nghị định cũng quy định về thời gian công khai trên từng loại phương tiện thông tin đại chúng.

 Đối với tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực, việc công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo được thực hiện bằng một trong các hình thức được quy định tại Điểm b, c Khoản 2 Điều 11 Nghị định 76.

Các quy định nêu trên nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch trong hoạt động giải quyết tố cáo, đồng thời nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố cáo.

 


3. Bảo vệ người tố cáo

Chương III Nghị định số 76/2012/NĐ-CP đã quy định các biện pháp cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ người tố cáo.

 Về bảo vệ bí mật thông tin người tố cáo:

Nhằm bảo đảm trong quá trình tiếp nhận, thụ lý giải quyết tố cáo không tiết lộ bí mật thông tin về người tố cáo, Điều 12 Nghị định quy định: Khi tiếp nhận tố cáo, thụ lý giải quyết tố cáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải có trách nhiệm nghiên cứu, xác định nội dung vụ việc, những thông tin nếu tiết lộ sẽ gây bất lợi cho người tố cáo để áp dụng các biện pháp phù hợp giữ bí mật thông tin cho người tố cáo. Trường hợp cần thiết, có thể lược bỏ họ tên, địa chỉ, bút tích, các thông tin cá nhân khác của người tố cáo ra khỏi đơn tố cáo và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, đồng thời lưu trữ và quản lý thông tin về người tố cáo theo chế độ thông tin mật.

Trong quá trình giải quyết tố cáo, nếu có yêu cầu làm việc trực tiếp với người tố cáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, người giải quyết tố cáo phải bố trí thời gian, địa điểm và lựa chọn phương thức làm việc phù hợp để bảo vệ bí mật thông tin cho người tố cáo.

 Điều 13 Nghị định quy định cơ quan, tổ  chức, cá nhân có liên quan trong việc cung cấp thông tin, tài liệu, phối hợp giải quyết tố cáo, thi hành quyết định xử lý hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết, phù hợp để bảo vệ bí mật thông tin cho người tố cáo.

Về bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm và các quyền nhân thân khác của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo, Nghị định quy định: Khi có căn cứ cho rằng việc tố cáo có thể gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe, xâm hại đến tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm và các quyền nhân thân khác của mình hoặc người thân thích của mình thì người tố cáo có quyền yêu cầu người giải quyết tố cáo, cơ quan công an nơi người tố cáo, người thân thích của người tố cáo cư trú, làm việc, học tập hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ. Yêu cầu bảo vệ phải bằng văn bản.

Trong việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, Điều 14 Nghị định quy định, tùy theo tính chất, mức độ của hành vi xâm hại để có biện pháp bản vệ phù hợp.Trường hợp xác định hành vi xâm hại người được bảo vệ đang diễn ra hoặc có nguy cơ xảy ra ngay tức khắc, thì áp dụng ngay các biện pháp bảo vệ như: Bố trí lực lượng, phương tiện, công cụ để bảo vệ an toàn cho người được bảo vệ tại nơi cần thiết; tạm thời di chuyển người được bảo vệ đến nơi an toàn. Khi đã ngăn chặn được hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của người được bảo vệ thì tùy theo từng trường hợp cụ thể, áp dụng các biện pháp như: Xử  lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị người có thẩm quyền xử lý đối với người có hành vi xâm hại; trường hợp xác định được việc xâm phạm về tính mạng, sức khỏe của người được bảo vệ có nguy cơ tái diễn thì ra quyết định bảo vệ và xây dựng kế hoạch bảo vệ.

 Căn cứ vào tính chất, mức độ và khả năng xảy ra trên thực tế của hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của người được bảo vệ, cơ quan ra quyết định bảo vệ xem xét áp dụng các biện pháp được quy định tại Khoản 3 Điều 39 của Luật Tố cáo và các biện pháp sau đây:

- Hạn chế phạm vi đi lại, quan hệ giao tiếp, thăm gặp, làm việc, học tập của người được bảo vệ trong một thời hạn nhất định;

- Di chuyển và giữ bí mật chỗ ở, nơi làm việc, học tập cho người được bảo vệ nhằm đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe;

- Xử lý hành chính hoặc kiến nghị xử lý hình sự đối với hành vi tấn công, xâm hại hoặc đe dọa tấn công, xâm hại;

- Áp dụng các biện pháp hành chính khác nhằm ngăn chặn hành vi tấn công, xâm hại hoặc đe dọa tấn công xâm hại người được bảo vệ;

- Thay đổi tung tích, lai lịch, đặc điểm nhân thân, nhân dạng của người được bảo vệ. Biện pháp này chỉ áp dụng trong trường hợp có sự đồng ý của người được bảo vệ và hành vi xâm hại hoặc đe dọa xâm hại là đặc biệt nguy hiểm có liên quan đến các tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, tội phạm về ma túy hoặc các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác theo quy định của pháp luật hình sự. 

Về bảo vệ tài sản, Điều 15 Nghị định quy định, trong quá trình giải quyết tố cáo nếu xét thấy có nguy cơ xâm hại về tài sản của người được bảo vệ thì người giải quyết tố cáo có trách nhiệm áp dụng theo thẩm quyền hoặc đề nghị người có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ và thông báo cho người được bảo vệ về tài sản biết. Khi đã ngăn chặn được hành vi xâm hại,  áp dụng biện pháp bảo vệ: Yêu cầu người có hành vi xâm hại về tài sản của người được bảo vệ chấm dứt hành vi vi phạm; xử  lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị người có thẩm quyền xử lý đối với hành vi vi phạm.

Nghị định cũng quy định các biên pháp cụ thể để bảo vệ uy tín, danh dự, nhân phẩm và các quyền nhân thân khác, bảo vệ vị trí công tác, việc làm  của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo.

4. Khen thưởng người có thành tích trong việc tố cáo

Nhằm quy định chi tiết Điều 45 Luật tố cáo, trên cơ sở quy định của Luật Thi đua khen thưởng và tính chất đặc thù của việc tố cáo, Chương IV Nghị định 76/2012/NĐ-CP đã quy định về việc khen thưởng người có thành tích trong việc tố cáo. Theo đó, các hình thức khen thưởng dành cho người có thành tích trong việc tố cáo bao gồm: Huân chương Dũng cảm; Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; Bằng khen của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan Trung ương các đoàn thể, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Giấy khen của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ, Ban, ngành, đoàn thể Trung ương; Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và tương đương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã và các cơ quan, đơn vị khác có thẩm quyền.

Nghị định cũng quy định cụ thể tiêu chuẩn khen thưởng, hồ sơ, thủ tục khen thưởng, quỹ khen thưởng và mức thưởng. Các quy định này nhằm khuyến khích, động viên người dân dũng cảm đấu tranh để  phát hiện, xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật./. 

 

Ths. Phạm Thị Phượng

Vụ Pháp chế - Thanh tra Chính phủ

(www.thanhtravietnam.vn)

Tin mới
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Tổng truy cập 4.086.357
Truy cập hiện tại 527 khách